Items
-
Phụ nhụ thiển sử ca
“Thơ ngũ ngôn trường thiên chữ Hán diễn ca vắn tắt các triều đại Trung Quốc. Từ thời Tam hoàng, Ngũ đế con người còn sống hoang sơ, ăn lông ở lỗ, lấy lá cây che thân…đến Toại Nhân dạy dân nấu nướng, Phục Hy đặt bát quái, dạy dân lấy chồng, dùng thuốc chữa bệnh, đan lưới đánh cá; Hoàng Đế dạy dân may quần áo, làm ra xe thuyền, dùng binh chế áo giáp, nuôi tằm trồng dâu. Đó là cảnh thịnh trị thời trung cổ. Đến Thương Hiệt tạo ra chữ tượng hình. Nghiêu Thuấn đào giếng cày ruộng, sai Vũ trị thuỷ, truyền ngôi cho người hiền không truyền cho con. Đến các đời Hạ, Thương, Chu, Tần, Sở, Hán, Tam quốc, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tuỳ, Đường, Tống, Nguyễn, Minh, Thanh (mà tác giả gọi là bản triều), mỗi đời đều có đánh giá theo quan điểm của một nhà Nho. Đoạn viết về nhà Tần như sau: Thuỷ hoàng diệt lục quốc, tự tôn xưng hoàng đế Đương thời tạo thử danh, Chí kim vị định chế Thiêu tận cổ kim thư, Khủng nhân đa thức tự Nhân hội độc thư nhân, Thôi nhập khanh trung tử Vạn lý trúc trường thành, Cấm nhân đái binh đao Thuỳ tri Tần Nhị thế, Quốc diệt Sở, Hán tranh.v.v.…” (Thọ, pp. 307-308). -
Phủ biên tạp lục (q.05)
“Bản chép tay, chữ đá thảo đẹp, tương đối công phu. q.01: Đầu sách có bài tựa đề năm Cảnh Hưng 37 tháng 8 ngày rằm Lê Quý Đôn Doãn Hậu thư vu Phú Xuân thành Triêu Dương. Nội dung bao gồm: Thuận Hoá Quảng Nam nhị xứ khai thiết khôi phục sự tích, Thuận Hoá Quảng nam nhị xứ sơn hà hình thế thành luỹ đạo lộ trạm dịch, Thuận Hoá Quảng Nam nhị xứ công tư điền trang hoa châu số trưng thu túc mễ cựu lệ tổng số, Thuận Hoá Quảng Nam nhị xứ trấn doanh chư ti quan thuộc chức thủ binh sĩ cựu lệ…" (Thọ, p. 304). -
Phủ biên tạp lục (q1-2)
“Bản chép tay, chữ đá thảo đẹp, tương đối công phu. q.01: Đầu sách có bài tựa đề năm Cảnh Hưng 37 tháng 8 ngày rằm Lê Quý Đôn Doãn Hậu thư vu Phú Xuân thành Triêu Dương. Nội dung bao gồm: Thuận Hoá Quảng Nam nhị xứ khai thiết khôi phục sự tích, Thuận Hoá Quảng nam nhị xứ sơn hà hình thế thành luỹ đạo lộ trạm dịch, Thuận Hoá Quảng Nam nhị xứ công tư điền trang hoa châu số trưng thu túc mễ cựu lệ tổng số, Thuận Hoá Quảng Nam nhị xứ trấn doanh chư ti quan thuộc chức thủ binh sĩ cựu lệ…" (Thọ, p. 304). -
Phú xuyên hậu nho cảo
“Sách địa lý phong thuỷ về một số địa phương, không chỉ các xã trong huyện Phú Xuyên mà nhiều xã ở huyện Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Sơn Minh cũng được nói đến trong sách. Như huyện Phú Xuyên, có ghi các xã Chuyên Mĩ, Vân Hoàng, Sơn Minh, Đào Xá, Văn Trai, Lương Xá, Thịnh Đức…như xã Chuyên Mĩ, một huyệt nằm ở hướng Tân, hướng Ất, mạch theo hướng Hợi mà đến, thế đất rồng xanh rủ đầu, hổ trắng phụ tinh, nước vòng sau trước, chủ khách cùng vui, kim sơn giáng thế, nước sao tàng dưới đất...kiểu đất ấy 40 năm sau người theo ngành nghề văn thì đỗ khoa giáp, võ thì đều được binh quyền, 80 năm sau thì phát giàu sang… Huyện Thượng Phúc: có huyệt tốt ở các xã Đồng Quan, Phượng Đồng, Vũ Lăng, Cổ Hiền, Nhị Khê, Quất Động, Bình Vọng, La Phù, Tử Dương, Hà Hồi, Nhân Hiền, Lưu Khê, Thượng Phúc, Trình Viên. Huyện Thanh Trì có huyệt phát ở các xã: Nhân Mục, Thịnh Liệt, Đại Áng, Mỹ Đình, Đông Phù Liệt, An Xá, Quang Liệt, Cổ Điển, Khương Đình, Hoàng Mai, An Nhiên, Phụ Sơn… Huyện Sơn Minh có các xã: Xà Kiều, Lựu Khê, Động Phí, Cảo Khê, Dương Khê, Sơn Minh… Huyện Thanh Oai có các xã: Sinh Quả, Kim Bài, Vĩnh Lữ… Huyện Hoài An có các xã Đông Mật, Ngọ Xá… Cuối sách có vẽ hình thế mạch đất.” (Thọ, pp. 306-307). -
Phú tắc tân tuyển
“Tựa của Lân Chi Lý Văn Phức điểm lịch sử phát triển của thể loại phú: Tứ thời Chiến quốc ở nước Sở đã có Ly Tao thành thể tao, đến Hán Nguỵ Lục triều mở rộng thành thể Tuyển (văn tuyển), đều là những khách thơ cô thần, nhất thời phúng vịnh, có khi viễn vận. Đến đời Đường lấy phú làm thể tài để thi chọn kẻ sĩ, từ đó phú biền ngẫu thịnh hành. Nước Việt ta văn minh đã mở, học thuật so với Minh Thanh tuy khác mà một. Từ đời Trần dùng thể phú Bát vận để thi học trò. Triều Lê hưng lên cũng theo cách ấy, xem các bài như Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai…thể thi là Bát vận mà thanh vận câu chữ trong đó rực rỡ réo rắt, nhưng không phải là giống với phú của Trung Quốc trước đời Minh Thanh. Đến cuối Lê phú thể một lần cải biến, văn theo thời đổi thay. Hoàng triều (Nguyễn) văn trị sáng tỏ, phép thi ngày một tinh tường đầy đủ…trong đó có một bài thi về thể phú. Thánh thiên tử đẹp ý sùng văn…từng thấy các tập Giản kim, Tân hình đọc mà lấy làm hâm mộ…bèn tuyển chọn thành một tập, nhan đề là Phú tắc tân tuyển (bản của Thư viện Quốc gia không đủ bộ, chỉ có bốn quyển 1-2 và 5-6." (Thọ, pp. 305-306). -
Phú tắc tân tuyển (q.01)
“Tựa của Lân Chi Lý Văn Phức điểm lịch sử phát triển của thể loại phú: Tứ thời Chiến quốc ở nước Sở đã có Ly Tao thành thể tao, đến Hán Nguỵ Lục triều mở rộng thành thể Tuyển (văn tuyển), đều là những khách thơ cô thần, nhất thời phúng vịnh, có khi viễn vận. Đến đời Đường lấy phú làm thể tài để thi chọn kẻ sĩ, từ đó phú biền ngẫu thịnh hành. Nước Việt ta văn minh đã mở, học thuật so với Minh Thanh tuy khác mà một. Từ đời Trần dùng thể phú Bát vận để thi học trò. Triều Lê hưng lên cũng theo cách ấy, xem các bài như Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai…thể thi là Bát vận mà thanh vận câu chữ trong đó rực rỡ réo rắt, nhưng không phải là giống với phú của Trung Quốc trước đời Minh Thanh. Đến cuối Lê phú thể một lần cải biến, văn theo thời đổi thay. Hoàng triều (Nguyễn) văn trị sáng tỏ, phép thi ngày một tinh tường đầy đủ…trong đó có một bài thi về thể phú. Thánh thiên tử đẹp ý sùng văn…từng thấy các tập Giản kim, Tân hình đọc mà lấy làm hâm mộ…bèn tuyển chọn thành một tập, nhan đề là Phú tắc tân tuyển (bản của Thư viện Quốc gia không đủ bộ, chỉ có bốn quyển 1-2 và 5-6.” (Thọ, pp. 305-306). -
Phú nghĩa tập
“Tập chép các bài phú luyện thi: Tử Lộ phụ mễ phú [子露附米賦], Thứ dân duy tinh (Tam đăng hoàng giáp Phạm tức Phạm Văn Nghị, một bài khác cùng đề của La Ngạn phó bảng Đỗ tức Đỗ Huy Uyển), Di Tề khấu mã (tiến sĩ Khiếu tức Khiếu Năng Tĩnh), Thiết cảng phú (Nam sử, Thiết cảng tại Nghệ An tỉnh địa phận), Thần nữ bất quá quán đàn phú [神女不過館壇賦], Hạc lập kê quần phú [鶴立鳮群賦], Ngô quý tử quải kiếm phú, Thái cú đông ly phú, Dã cốc linh phú [野谷靈賦], Chỉ diên phú, Luyện thạch bổ thiên phú [煉石補天賦], Ngãi nhân phú [刈人賦], Tâm học nguyên uyên phú [心學原淵賦], Mạch thu chí phú (có nét bút son phê 1 chữ to-Ngoại-ý phê ngoài đề), Khổng Tử mộng Chu công phú.” (Thọ, p. 305). -
Phù lưu Nguyễn tiên sinh thi tập
“Nguyễn tiên sinh tự Đạt Chi, đỗ cử nhân, người Sơn Đồng, chưa rõ tên thật. 1. Phần 1: Gồm các bài thơ chúc tụng, xướng hoạ, làm thay…như bài làm thay cả họ mừng ông chú họ lên lão, hoạ thơ ông chú, gửi Nguyễn đài… 2. Phần 2: Trướng văn tạp biên: trung từ tế mẫu văn, Môn sinh vãn sư ca khúc, Vãn Sơn Đồng ngũ khoa Nguyễn tú tài do học trò ở xã Dương Trù huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương viếng, Y môn tế sư văn, Tế mẫu văn do Tú tài huyện Quế Dương hiệu là Chất Trực soạn thay người có tên là Khuông, Khấp ngoại tổ phụ trướng, Vãn hữu trướng, Tử khấp mẫu trướng, Chúng tôn khấp tổ mẫu trướng, v.v.” (Thọ, p. 304). -
Phổ thông độc bản
“Sách phổ cập kiến thức mới hồi đầu thế kỷ XX, mục đích nâng cao dân trí, khuyến khích dân chúng hăng hái độc lập tự cường. Mỗi bài đều có phần chữ Hán và phần chữ quốc ngữ. Thiên văn [天文]: Bài 1: Tổng thuyết [總説]: Thiên văn, địa lý, vũ trụ. Bài 2: Địa cầu viên chuyển [地球圓轉]: Đất tròn như quả cầu cho nên gọi là địa cầu. Đất xoay tròn mà các loài vật trên mặt đất không rơi giữa trời…Bài 3: Địa cầu lưỡng động [地球兩動]: Đất có 2 chuyển động: một là Nhật động, hai là Niên động. Quả đất quay từ đông sang tây…Bài 4: Kinh vĩ độ [經緯度]. Bài 5: Phương hướng [方向]. Bài 6: Tứ thời [四辰]. Bài 7. Ngũ đái [五帶]: Chia làm 2 đới Hàn, Nhiệt, Xích đạo, Hoàng đạo. Các nước giàu mạnh thường ở ôn đới nhiều. Hàn đới thì dân thưa ít, kinh tế kém phát triển. Bài 8: Thái dương [太陽]. Bài 9: Thái âm [太陰]. Bài 10: Mặt trăng tròn khuyết. Bài 11: Nhật thực, nguyệt thực [日食月食]. Địa lý 地理: Bài 1: Tổng luận [總論]. Bài 2: Địa chất [地質]. Bài 3: Địa chi ngoại bộ [地之外部]. Bài 5: Thuỷ thành thạch [水成石]. Bài 6: Thạch phân loại [石分類]. Bài 7: Địa trung di tích [地中遺跡]. Bài 9: Khối thạch phân loại [塊石分類]. Bài 10: Thạch thán (Đá vôi) [石炭]. Bài 11: khoáng vật (thượng) [礦物上]. Bài 12: Khoáng vật (trung) [礦物中]. Bài 13: Khoáng vật (hạ) [礦物下]. Bài 14: Hải dương [海洋]. Bài 15: triều tịch [潮汐]. Bài 16: Giang hà hồ bạc [江河湖泊]. Bài 17: thuỷ tuyền [水泉]. Bài 18: Lục địa [陸地]. Bài 19: Cao nguyên, Để nguyên [高原抵原]. Bài 20: Sơn nhạc [山岳]. Bài 21: Hoả sơn [ 火山]. Bài 22: Địa chấn [地震].” (Thọ, p. 300). -
Phan Trần truyện trùng duyệt
“Phan Trần truyện trùng duyệt là truyện Phan Trần duyệt lại, nội dung như truyện Phan Trần, một tác phẩm khuyết danh. Cốt truyện lấy sự tích từ một cuộc tình duyện đời Tĩnh Khang nhà Tống bên Trung Quốc. Truyện viết theo thể lục bát dài 936 câu. Phan Công và Phan Trần vốn là bạn cùng học và cùng làm quan tại triều. Hai bên hẹn ước: hễ một bên đẻ con trai, một bên đẻ con gái thì sẽ gả cho nhau. Về sau, họ Trần sinh con gái đặt tên là Trần Kiều Liên, họ Phan sinh con trai đặt tên là Phan Tất Chánh. Đúng như hẹn ước, họ Phan trao quạt, họ Trần trao trâm để làm vật đính hôn. Sau này Trần Công chết, gặp lúc loạn ly, mẹ con Trần Kiều Liên phải lánh nạn, chẳng may lạc nhau. Trần Kiều Liên vào tu ở chùa Kim Lăng, pháp danh là Diệu Thường. Phan Tất Chánh thi Hương đỗ Thủ khoa nhưng vào thi Hội bị trượt. Phan nhớ đến người cô tu ở chùa Kim Lăng bèn đến thăm và ở lại đấy dùi mài đèn sách. Gặp ni cô Diệu Thường, Phan cảm mến, nhờ vãi tên là Hương Công mai mối nhưng bị Diệu Thường cự tuyệt. Phan ốm tương tư, Diệu Thường phải đến thăm. Nửa đêm Phan định đến phòng của Diệu Thường để cám ơn nhưng bị Diệu Thường từ chối. Phan doạ tự vẫn nên Diệu Thường phải cho vào. Qua câu chuyện, hai bên nhận được nhau. Phan Tất Chánh về kinh thi Hội, đỗ Trạng nguyên. Tất Chánh xin sư cô cho cưới Kiều Liên rồi cùng về quê. Tới nhà, Kiều Liên gặp lại mẹ. Câu chuyện kết thúc có hậu như phần lớn các truyện Nôm dân gian khác: các nhân vật được hưởng cuộc đời hạnh phúc.” (Thọ, pp. 301-302). -
Phan Bội Châu tiểu sử
“Sau 20 năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, 5-1925 cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải rồi đưa về nước để xử án tử hình. Một phong trào quần chúng yêu nước rầm rộ nổi lên khắp nơi trong nước đòi ân xá cho cụ Phan. Tại toà án đại hình, cụ Phan đã dõng dạc bảo vệ chính nghĩa yêu nước của mình, lên án tội ác của thực dân Pháp xâm lược. Báo chí quốc ngữ trong khoảng thời gian này liên tiếp đăng tải các tin bài liên quan đến vụ án cụ Phan. Nhưng lúc bấy giờ radio thì chưa có mà số người biết đọc báo chí quốc ngữ cũng chỉ hạn chế rất ít trong tầng lớp trí thức học sinh, công chức ở thành thị. Nhà tàng bản Liễu Văn Đường đã nhờ người biết quốc ngữ và chữ Nôm kịp thời đưa tin cho lớp trung niên cả ở thôn quê và thành thị được đọc biết. Tập tiểu sử Phan Bội Châu có thể coi là một trong số những tài liệu khá sớm công bố tiểu sử của nhà chí sĩ cách mạng “Ông quê ở làng Đan Nhiễm huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, sinh năm 1866, năm nay 59 tuổi, thân phụ là cụ Phan Văn Phố, thân mẫu là cụ Phan Thị Xuân đỗ thủ khoa trường Nghệ năm Canh Tí (1900)…”. Tiếp sau là tiểu sử tóm tắt, tập sách có các chuyên mục: -Cái quan niệm về việc cụ Phan: dư luận của các giới xã hội đối với sự kiện cụ Phan bị bắt. -Nói về việc ân xá cụ Phan. -Một người quan hệ với thời cục. Việc nhà xuất bản (kiểu cũ) in ấn kịp thời tập sách này, cho thấy hầu như là trong một vài cố gắng cuối cùng, chữ Nôm vẫn theo sát những diễn biến lớn trong đời sống chính trị xã hội của đất nước, tập sách vì vậy cũng có tác dụng tốt đáng ghi nhận, đồng thời đến nay vẫn có giá trị tham khảo đối với những người nghiên cứu về Phan Bội Châu.” (Thọ, pp. 300-301). -
Phàm tình tỉ ứng thiên lộc
Xem Tho, p. 299. -
Phương Đình văn loại (q.04)
Xem Thọ, p. 298. -
Phương Đình văn loại (q.03)
Xem Thọ, p. 298. -
Phương Đình văn loại (q.01-02)
Xem Thọ, p. 298. -
Phương Đình tuỳ bút lục (q.05)
Đầu sách có bài Phương Đình di tập tiểu dẫn, giới thiệu sơ lược tiểu sử của Phương Đình, có nói việc học trò của ông soạn tập đem in: Tuỳ bút lục (6 quyển), Địa chí loại (5 quyển), Văn loại, Thi tập. Bài tiểu dẫn do học trò của ông viết, đề: Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi tam thập ngũ tiểu xuân cốc nhật (1882). Môn đệ: Tiến sĩ Quang lộc tự khanh quyền sung Hà Nội tuần phủ Đông Phần Vũ phụng kiểm. Q.05-06: Tứ thư trích giảng [四書摘講]: bài giảng của Phương Đình về tứ thư. (Thọ, pp. 296-298; cf. R.1212, R.1213, R.1215, R.1500). -
Phương Đình tuỳ bút lục (q.04)
Đầu sách có bài Phương Đình di tập tiểu dẫn, giới thiệu sơ lược tiểu sử của Phương Đình, có nói việc học trò của ông soạn tập đem in: Tuỳ bút lục (6 quyển), Địa chí loại (5 quyển), Văn loại, Thi tập. Bài tiểu dẫn do học trò của ông viết, đề: Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi tam thập ngũ tiểu xuân cốc nhật (1882). Môn đệ: Tiến sĩ Quang lộc tự khanh quyền sung Hà Nội tuần phủ Đông Phần Vũ phụng kiểm. (Thọ, pp. 296-298). -
Phương Đình tuỳ bút lục (q.03)
"Đầu sách có bài Phương Đình di tập tiểu dẫn, giới thiệu sơ lược tiểu sử của Phương Đình, có nói việc học trò của ông soạn tập đem in: Tuỳ bút lục (6 quyển), Địa chí loại (5 quyển), Văn loại, Thi tập. Bài tiểu dẫn do học trò của ông viết, đề: Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi tam thập ngũ tiểu xuân cốc nhật (1882). Môn đệ: Tiến sĩ Quang lộc tự khanh quyền sung Hà Nội tuần phủ Đông Phần Vũ phụng kiểm." (Thọ, pp. 296-298). -
Phương Đình tuỳ bút lục (q.01)
Đầu sách có bài Phương Đình di tập tiểu dẫn, giới thiệu sơ lược tiểu sử của Phương Đình, có nói việc học trò của ông soạn tập đem in: Tuỳ bút lục (6 quyển), Địa chí loại (5 quyển), Văn loại, Thi tập. Bài tiểu dẫn do học trò của ông viết, đề: Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi tam thập ngũ tiểu xuân cốc nhật (1882). Môn đệ: Tiến sĩ Quang lộc tự khanh quyền sung Hà Nội tuần phủ Đông Phần Vũ phụng kiểm. (Thọ, pp. 296-298). -
Phân loại phú học chỉ nam
“In lại sách Trung Quốc. Không thấy rõ nguyên thư gồm bao nhiêu quyển, bản do nhà Tập Văn đường in lại đây (1876) chỉ có 2 quyển: Q.1: luận áp vận[ 論押韻] (bàn về cách áp vận): 1. Áp hư tự [押 虚序], 2. Nhân vận pháp [人韻法], 3. Xuất sắc vận [出色韻], 4. Áp nhân danh, địa danh [押人名,地名]. Q.2: Luận thuyên đề [論鎸提] Bàn về phép áp vần trong thể phú, không chỉ cần thiết đối với sĩ tử ngày trước, ở một mức độ nào đó người đọc ngày nay cũng có thể tham khảo để hiểu những nguyên tắc và đòi hỏi dùng vần trong các bài phú chữ Hán.” (Thọ, p. 295). -
Pháp chủ thoát cách
Sách không có tên, lấy đề tài của một bài đầu sách làm tên sách. Tờ đầu tiên có đề dòng chữ Nôm to: Khai quyển trò hát cho thánh Tề. Nội dung sách là các bài hát bằng chữ Nôm dùng cho cúng tế, tang lễ, gọi hồn…như: Pháp chủ vãn cách [法主晚格], Pháp chủ giáo cách [法主教格], Đội viên giáo cách [隊員教格](khuyên người dốc chí tu hành để lúc chết được hưởng cảnh tiên), giáo đò cách [教渡格], chèo thuyền cách, tiến phụ thập sầu quốc ngữ, tiến mẫu thập ân quốc ngữ (các bài hát dùng trong tiễn đưa người chết, báo ân cha mẹ, tổ tiên đã khuất). (Thọ, p. 292). -
Phả ký miếu mộ
Tộc phả họ Đinh ở làng Ngọc Động, tổng Lê Xá, huyện Gia Viễn, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình cũ. Tú tài Đinh Thức Hiệt soạn 秀才丁式頡. Hương mục Đinh Khắc Tuân chép 鄕目丁克遵. Họ Đinh ở làng Ngọc Động đã lập phả ký ghi vị trí miếu mộ của dòng họ mình. Ghi các lệ định về tảo mộ ngày xuân, chọn người đỗ khoá sinh trong xã để nhờ viết văn tế, các loại vật phẩm để cúng tế ngày giỗ chính. Có chép bài văn tế. (Thọ, pp. 291-292). -
Nhĩ nhã
Bản sách in này mất đầu mất đuôi (chỉ có từ trang 61 đến 112) có lẽ là bản in của Việt Nam. Nội dung: ghi chép các cách chép các chữ Hán theo lối cổ -
Nhị vị tập
Đầu sách có 2 bài tựa, bài đầu của Đặng Huy Trứ đề năm Tự Đức 22 (1869) 嗣德二十二年, bài thứ 2 của Bành Thọ Mai người Trung Quốc. Theo tựa thì sách này do Đặng Huy Trứ lúc còn đi học có đọc tập sách in của Ngũ Vân Lâu, Trung Quốc thấy ý vị thâm cảm nhưng tiếc là không lưu giữ được, nhân dịp được đi sứ sang Trung Quốc tìm mua. Đáng tiếc là bản in của Ngũ Vân Lâu đã bị thất lạc bởi giặc Tây, ông chỉ chép được quyển Nhị vị tập của Bành Thọ Mai ở Tân Hội soạn năm Đồng Trị Quý Hợi 同治季亥. Sách chia làm 2 phần: Khoáng thức 曠識 và Đạt tình 達情, nội dung chép những câu châm ngôn danh cú trong Tử, Sử, Bách gia làm lời răn dạy, có kèm lời án của soạn giả bàn về ý nghĩa của câu ấy. Quyển này cùng với quyển Tạc phi am tập cũng gần gũi liên quan biểu lý với nhau, nội dung có Tam vị là Kinh- Sử- Tử, Đặng Huy Trứ khảo sát sách này, rút lấy những điều bổ ích trong 2 phần Tử, Sử có ích cho tăng quảng kiến thức, bồi dưỡng tính tình mà soạn ra thành sách, đặt tên là Nhị vị tập 二味集Đầu sách có 2 bài tựa, bài đầu của Đặng Huy Trứ đề năm Tự Đức 22 (1869) 嗣德二十二年, bài thứ 2 của Bành Thọ Mai người Trung Quốc. Theo tựa thì sách này do Đặng Huy Trứ lúc còn đi học có đọc tập sách in của Ngũ Vân Lâu, Trung Quốc thấy ý vị thâm cảm nhưng tiếc là không lưu giữ được, nhân dịp được đi sứ sang Trung Quốc tìm mua. Đáng tiếc là bản in của Ngũ Vân Lâu đã bị thất lạc bởi giặc Tây, ông chỉ chép được quyển Nhị vị tập của Bành Thọ Mai ở Tân Hội soạn năm Đồng Trị Quý Hợi 同治季亥. Sách chia làm 2 phần: Khoáng thức 曠識 và Đạt tình 達情, nội dung chép những câu châm ngôn danh cú trong Tử, Sử, Bách gia làm lời răn dạy, có kèm lời án của soạn giả bàn về ý nghĩa của câu ấy. Quyển này cùng với quyển Tạc phi am tập cũng gần gũi liên quan biểu lý với nhau, nội dung có Tam vị là Kinh- Sử- Tử, Đặng Huy Trứ khảo sát sách này, rút lấy những điều bổ ích trong 2 phần Tử, Sử có ích cho tăng quảng kiến thức, bồi dưỡng tính tình mà soạn ra thành sách, đặt tên là Nhị vị tập 二味集 -
Nhật dụng thường đàm
Xem Thọ, p. 281.