VNPF: Vietnamese Nôm Preservation Foundation image collection

Item set

Items

Advanced search
  • Bích Họa

    Scholars such as the late Rolf Stein have described the historical influence of Tibetan tantric Buddhism (mật tông) in Vietnam. At Thắng Nghiêm the inside walls of the Temple compound facing the river have been recently been painted in the Tibetan style. A discussion of this will follow as we continue to archive aspects of the Temple.
  • Phúc Đống tự Hậu phật

    Nội dung ghi việc bà Đào Thị Dược, hiệu Diệu Kính cùng với người bản tộc là Nguyễn Văn Tiến đã tự nguyện cúng 60 đồng bạc vào chùa để lo việc Hậu Phật cùng với chồng và gia tiên nội ngoại được phối hưởng mong vãng sinh cõi tịnh độ. Nhân đó nhà chùa cho lập bi ghi công lưu truyền mãi mãi. Có ghi danh sách tên, huý hiệu, ngày giỗ những người được Hậu phật.
  • Phúc Đống tự bi hậu

    Nội dung ghi năm Canh Tuất Chùa Phúc Đống xã Khúc Thuỷ dựng mới ngôi Tổ đường. Người trong xã là Lưu Đình Bá đã xuất tiền công đức để mong được thành phúc quả. Đồng thời mong bản thân cũng với vợ và những người thân trong gia đình sau trăm tuổi được phối hưởng nơi cửa Phật. Lại xuất thêm 1 mẫu 5 sào ruộng vào chùa để lo việc cơm chay cúng giỗ hàng năm. Phần sau có ghi danh sách tên, huý, hiệu ngà giỗ những người được phối hưởng.
  • Phúc Đống tự bi

    Chùa Phúc Đống thuộc xã Khúc Thuỷ, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh oai, phủ Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông là ngôi danh lam cổ tự. Vào năm Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái toàn thôn trên dưới xã Khúc Thuỷ đồng lòng cung thỉnh tổ sư Thanh Toàn chùa Linh Quang, phố Hàng Trống. Tổ sư Thanh Toàn đã uỷ thác cho sư Thanh Sùng trong sơn môn chùa Tiên Linh đến trụ trì chùa Phúc Đống. Dân làng cùng bàn bạc xin phép tỉnh đường trùng tu lại ngôi Tam Bảo tổng cộng 9 gian, đồng thời đúc tượng Phật. Lại đến năm Canh Tuất Sư trụ trì Thanh Sùng cùng với dân làng dựng ngôi Điện đường mới tổng cộng 9 gian, tạo 5 bức tượng Tiên Thánh, 1 bức tượng Long Thần. Đến năm Canh Thân dựng Tam Quan, đồng thời lấp nền, đào giếng, vét bến...Từ đấy thiền gia tông môn luôn được nối truyền. Phần sau có ghi bài minh 4 câu.
  • Phúc Đống tự bi kí

    Văn bia Hậu phật với nội dung đan xen giữa tư tưởng Phật giáo và tín ngưỡng văn hoá làng xã nông thôn Việt Nam vùng đồng bằng Bắc bộ. Bia ghi lại lịch sử trùng tu chùa và lệ bầu Hậu kị. Vì vào năm 1901 chùa cũ hoang phế, không có sư trụ trì. Do đó chức sắc trong xã cùng nhau bàn bạc thỉnh mời sư thầy tự là Thanh Toàn ở chùa Linh Quang về làm trụ trì chùa Phúc Đống. Sau đó là kêu gọi những người hảo tâm trong toàn ấp cùng những thiện nam tín nữ trong tỉnh huyện khuyên góp tiền của mua ngói, gỗ lim, để trùng tu lại chùa cũ khang trang hơn. Vì tổn phí cho việc xây dựng chùa khá tốn kém, trong xã có bà Đặng Thị Sum sẵn lòng hảo tâm bỏ ra 100 đồng bạc để trợ giúp cho việc xây dựng chùa. Do đó bản xã đồng lòng bầu bà làm Hậu kị tại chùa. Sau khi bà mất, hàng năm bản xã và nhà chùa có trách nhiệm cúng giỗ theo lệ ghi trong bia.
  • Phúc Đống tự hậu bi

    Nội dung ghi việc tín chủ Đào Văn Liễn và vợ là Lê Thị Cắm người xã Khúc Thuỷ, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông đã tự nguyện cúng tiền, ruộng gửi giỗ cho nhạc phụ, nhạc mẫu và tứ thân được phối hưởng vào những dịp tế lễ trong chùa để mong được vãng sinh nơi tịnh độ. Lại cúng thêm 80 đồng bạc và 1 mẫu ruộng để nhà chùa lo việc cúng giỗ hàng năm. Vào những ngày chính giỗ nhà chùa chuẩn bị cỗ chay đặt tại trước bia hành lễ. Phần sau có ghi tên, tự hiệu, ngày giỗ và những người được phối hưởng.
  • [Khúc Thuỷ tự hậu bi]

    Nội dung ghi việc Tôn sư Đặng Tiên Ông, tự Hùng Kiện đã bỏ 500 quan tiền xây 1 toà Liên Đài để tiện cho việc cúng giỗ sau trăm tuổi, đồng thời ông đã gửi kị điền (ruộng gửi giỗ) 2 mẫu 4 sào 1 thước giao cho cai xã chia cho các thôn luân lưu canh tác để lấy hoa lợi sắm lễ. Hàng năm đến tết Nguyên Đán thôn xã phải sắm sửa: gà, xôi, vàng mã, trầu cau, rượu và 1 quan tiền đặt trước Liên đài tế lễ. Đến ngày chính kị 28 tháng 2 hàng năm sửa biện 1 thủ lợn và 1 miếng thịt giá tiền 3 quan mạch; xôi nếp trị giá 1 quan 2 mạch; vàng mã, trầu cau, rượu, muối tương trị giá 6 mạch để cúng lễ. Ngoài ra có ghi thêm tên, ngày giỗ những người trong gia đình được phối hưởng và danh sách, vị trí số ruộng cúng.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 3 chữ Hán 幽而顯 U nhi hiển. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên gian Hậu cung điện mẫu.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 嶽瀆林泉 Nhạc độc lâm tuyền. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên gian chính điện mẫu.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 毓秀鐘英 Dục tú chung anh. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên gian bên phải điện mẫu.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 光明不絶 Quang minh bất tuyệt. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo tren gian chính điện Tổ đường (Nhà thờ tổ).
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 眾聖中王 Chúng thánh trung vương. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên gian trong cùng Hậu cung Tam bảo.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 九葉天香 Cửu diệp thiên hương. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên gian đầu tiên Hậu cung Tam bảo.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 依正莊嚴 Y chính trang nghiêm. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên gian đầu tiên Hậu cung Tam bảo.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 聖德難量 Thánh đức nan lượng. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên ban thờ ban đức Thánh hiền bên trái.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 惡有所懲 Ác hữu sở trừng. Nghệ thuật trạm trổ tinh xảo, diềm trên dưới theo lối hoạ tiết tùng, cúc, trúc mai cách điệu; hai bên là hoa lá cuốn thư; nền trạm trổ theo lối chữ vạn cách điệu; sơn son thiếp vàng; chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên ban thờ đức Hộ pháp gian trong bên trái.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 大雄寶殿 Đại Hùng bảo điện (Điện báu thờ bậc Đại Hùng), được trạm trổ nghệ thuật, sơn son thiếp vàng, chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên chính điện ngôi Tam Bảo.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 善知所勸 Thiện tri sở khuyến (Làm việc thiện nên khuyến khích), được trạm trổ, sơn son thiếp vàng, chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên ban thờ Đức Hộ Pháp bên phải tại ngôi Tam Bảo.
  • Hoành Phi / Đại tự

    Bức Đại tự ghi 4 chữ Hán 神功叵測 Thần công phả trắc (Công lao của thần không thể lường hết được) được trạm trổ, sơn son thiếp vàng, chữ Hán Sơn màu đen. Vị trí treo trên ban thờ Đức chúa ông gian bên phải tại ngôi Tam Bảo.
  • Cuốn thư

    Diềm cuốn thư được trang trí dây leo hoa mai, phía trên là bông hoa cúc, phía dưới là hình hổ phù. Hai cánh cuốn thư được trang trí chữ vạn cách điệu, hai ống cuốn thư cắm kiếm và bút. Giữa cuốn thư được khắc chữ Hán theo lối hành thảo. Nội dung gồm 4 chữ Hán Tối linh thánh điện 最靈聖殿.
  • Cuốn thư

    Diềm cuốn thư được trang trí dây leo hoa đào, phía trên là bông hoa cúc, phía dưới là một con dơi ngậm thởi bạc. Hai cánh cuốn thư được trang trí hoa tranh cách điệu, giữa cuốn thư được khắc chữ Hán theo lối thảo thư. Nội dung là một bài kệ trích trong kinh Hoa Nghiêm.
  • Cuốn thư

    Diềm cuốn thư được trang trí dây leo hoa đào, phía trên là bông hoa cúc, phía dưới là một con dơi ngậm thởi bạc. Hai cánh cuốn thư được trang trí hoa tranh cách điệu, giữa cuốn thư được khắc chữ Hán theo lối thảo thư. Nội dung là một bài kệ trích trong kinh Hoa Nghiêm.
  • Cuốn thư

    Diềm cuốn thư được trang trí dây leo hoa cúc, hai cánh cuốn thư được trang trí địa lan, giữa cuốn thư được khắc chữ Hán theo lối thảo thư. Nội dung là một bài kệ trích trong kinh Hoa Nghiêm.
  • Câu đối / Đối liên

    Đôi câu đối được thể hiện bằng chữ Hán Nôm tại vườn tháp tọa lạc bên phải Tam bảo. Chữ đắp nổi bằng xi măng, mỗi câu 5 chữ : 玉骨留寶塔,真心現蓮臺 Ngọc cốt lưu bảo tháp, Chân tâm hiện liên đài.
  • Câu đối / Đối liên

    Đôi câu đối được thể hiện bằng chữ Hán Nôm tại vườn tháp tọa lạc bên phải Tam bảo. Chữ được đắp nổi bằng xi măng, mỗi câu 5 chữ : 真身同天地,法性等乾坤 Chân tâm đồng thiên địa, Pháp tính đẳng càn khôn.